Phân tích Trao duyên của Nguyễn Du được Tủ Sách Tinh Hoa chia sẻ dưới đây gồm dàn ý chi tiết và bài văn mẫu siêu hay, đạt điểm cao của các bạn học sinh giỏi. Đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em ôn tập, trau dồi kiến thức, biết cách làm bài phân tích, đầy đủ ý để đạt được kết quả cao.
Phân tích bài thơ này, chúng ta không chỉ thấu hiểu hết những bi kịch số phận, tình yêu của Thúy Kiều mà còn cho thấy rõ nhân cách cao đẹp của nàng. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả Nguyễn Du đã bày tỏ sự xót xa, niềm thương cảm trước những hiện thực bất công, bi kịch cuộc đời Kiều.
Xem thêm:
- Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh (Dàn ý + Văn mẫu)
Dàn ý phân tích bài thơ Trao duyên
Mở bài
Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Du: ông là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới lớn. Ông là nhà thơ, nhà văn vĩ đại với một nhân cách lớn.
- Đoạn trích Trao duyên:
- Vị trí: Đoạn trích Trao duyên nằm ở câu 723 đến câu 756 trong tác phẩm Truyện Kiều.
- Nội dung: Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đêm cuối cùng sau khi quyết định bán mình chuộc cha, nàng trao duyên cho Thúy Kiều và nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim Trọng giúp mình.
Thân bài
12 câu thơ đầu: Thúy Kiều nhờ cậy, thuyết phục Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng
Hai câu đầu: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Thúy Kiều đã sử dụng ngôn từ hết sức tinh tế, cẩn trọng để đạt hiệu quả cao nhất và bởi Thúy Kiều rất hiểu cho tình thế của Thúy vân, đây là câu chuyện hết sức hệ trọng, đột ngột.
- “Từ “cậy”: nhờ giúp đỡ và gửi gắm, tin tưởng, có cả sự hy vọng, trông mong tha thiết → sự gửi gắm, nương nhờ tha thiết.
- “Chịu lời”: nhận lời làm một việc gì đó mà không tự nguyện, miễn cưỡng chấp nhận → Thể hiện Thúy Kiều rất hiểu cho tình thế cũng như cảm xúc, nỗi lòng của Thúy Vân khi nghe những lời mình sắp nói.
- Cặp từ “lạy, thưa”: phi lý khi được sử dụng trong quan hệ chị em. Theo nguyên tắc của lễ giáo phong kiến thì không thể nào chị lại lạy thưa với em. Nhưng từ cái phi lý ấy nó đã chuyển thành hợp lý khi sử dụng trong quan hệ giữa ân nhân với kẻ chịu ơn → Thể hiện sự tôn trọng trước những gì mà Thúy Vân đã làm cho mình.
⇒ Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình thế khó có thể từ chối trước những điều éo le, nghịch cảnh mà mình sắp nói.
Mười câu tiếp: Lý lẽ trao duyên của Thúy Kiều
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
- Thúy Kiều đưa ra mâu thuẫn mà mình phải đối mặt: Thúy Kiều đã hẹn thề với Kim Trọng: “gặp chàng Kim” “quạt ước”, “chén thề”. Nhưng Thúy Kiều đã vi phạm lời thề, là người bội ước.
- Nguyên nhân Thúy Kiều bội ước – đây là nguyên nhân khách quan:
- Kể lại biến cố lớn bất ngờ, đột ngột xảy ra với gia đình mình
- Thúy Kiều bị đặt vào mối mâu thuẫn “hiếu – tình”. Cuối cùng Kiều đành chọn hy sinh tình.
→ Chính vì lựa chọn chữ hiếu, Thúy Kiều đã rơi vào tình huống khó xử khác (phụ lòng người yêu) → Thúy Kiều áy náy, dằn vặt.
⇒ Thúy Kiều đã gửi gắm sự áy náy, dằn vặt, hối lỗi
- “Giữa đường đứt gánh” → khắc sâu tình cảnh, nỗi xót xa, đau đớn của Thúy Kiều.
Thúy Kiều đề xuất giải pháp để giải quyết mâu thuẫn
- “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em” → vừa cho thấy sự đau đớn của Thúy Kiều vừa thể hiện sự tội nghiệp của Thúy Vân.
- “Ngày xuân em hãy còn dài” → Thúy Vân vẫn còn trẻ, vẫn còn tương lai phía trước.
- “Xót tình máu mủ thay lời nước non” → Thúy Kiều thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt máu mủ.
⇒ Thúy Kiều giãi bày tâm trạng của mình: “dù thịt nát xương mòn” → Thúy Kiều có dự cảm không lành về tương lai.
- “Ngậm cười chín suối” → thành ngữ thể hiện được an ủi, được xoa dịu nỗi đau mà mình phải gánh chịu sau khi bước chân ra khỏi nhà.
⇒ Thúy Kiều đã đặt trách nhiệm cho Thúy Vân, buộc Thúy Vân không thể từ chối, nó thể hiện sự thông minh sắc sảo của Kiều với cách lập luận hợp tình, hợp lý.
14 câu thơ tiếp theo: Thúy Kiều trao kỷ vật cho Thúy Vân và dặn dò chuyện mai sau
Thúy Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân
“Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
- Thúy Kiều gọi tên từng kỉ vật khi trao cho Thúy Vân: “chiếc vành”, “bức tờ mây”
- Kỉ vật: “phím đàn”, “mảnh hương nguyền”
→ Đây là những kỉ niệm chung đôi bên nhau của Kim – Kiều → Trao kỉ vật cũng là trao duyên cho Thúy vân.
- Đồng thời với việc trao kỉ vật thì Thúy Kiều cũng xuất hiện sự mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm.
- Lý trí: Thúy Kiều trao hết kỉ vật, không giữ lại gì hết. Mong muốn em nên vợ nên chồng với Kim Trọng → Mong muốn Thúy Vân có cuộc sống êm đềm, hạnh phúc.
- Tình cảm: “Duyên này thì giữ, vật này của chung” → Thúy Kiều muốn đồng sở hữu những kỉ vật. Và Thúy Kiều mong muốn Thúy vân, Kim Trọng không quên mình (Mong muốn Thúy Vân không quên tình chị em máu mủ, mong Kim Trọng không quên tình yêu với mình).
→ Thúy Kiều có sự ích kỉ, mềm yếu → Thể hiện tình cảm của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng rất sâu nặng, cho thấy cả nỗi đau đớn, giằng xé trong tâm can Thúy Kiều.
Dặn dò Thúy Vân chuyện mai sau
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rưới xin chén nước cho người thác oan”
Trong lời dặn chứa đựng sự mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm:
- Lý trí: mong muốn Thúy Vân và Kim Trọng có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và êm đềm: “đốt lò hương ấy so tơ phím này”
- Tình cảm: Thúy Kiều lại muốn mình được sum họp, chung hưởng hạnh phúc bên gia đình Kim Trọng, Thúy Vân.
→ Dù nát thân bồ liễu nhưng linh hồn Thúy Kiều vẫn mang nặng lời thề → linh hồn không thể siêu thoát nên sẽ trở về để chung hưởng hạnh phúc.
⇒ Cho thấy sự tiếc nuối, đau khổ, sự than thân trách phận của Thúy Kiều. Đồng thời cho thấy tình cảm sâu nặng của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.
⇒ Thúy Kiều hiện lên trong đoạn trích không phải chỉ là một tấm gương đạo lý thông thường mà còn là một con người trần thế sống động.
8 câu cuối: Thúy Kiều trở về với thực tại đau xót
“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Sau những cố gắng níu kéo không khả thi thì Thúy Kiều buộc phải quay về đối mặt và chấp nhận thực tế: tình yêu tan vỡ không thể hàn gắn.
→ Thúy Kiều thức tỉnh nỗi đau thân phận, đau đớn về sự bạc bẽo của số phận, không tự được tự quyết con đường đi của mình.
- Thúy Kiều đã đối thoại với Kim Trọng trong tâm tưởng
- Dùng tới 2 thán từ “ôi, hỡi” trong cùng 1 câu
- Nhịp ngắt phá cách 3/3
→ Khiến câu thơ như tiếng nấc nghẹn đau đớn của Thúy Kiều.
– Câu kết là lời nhận tội, tự trách của Thúy Kiều: phụ bạc tình yêu
- Thuý Kiều nhận mình là “người phụ bạc”
- Hai lần gọi tên Kim Trọng nghẹn ngào, tức tưởi, đau đớn
—> Kiều quên đi nỗi đau của mình mà chỉ nghĩ đến cho người khác, đó là đức hy sinh cao quý.
Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
+ Giá trị nội dung: Phơi bày và thể hiện sự đồng cảm, xót thương với bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều. Thúy Kiều là điển hình của người phụ nữ, kiếp hồng nhan bạc mệnh. Đồng thời trân trọng, ngợi ca nhân cách của Thúy Kiều.
+ Đặc sắc nghệ thuật: nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật, tác giả đã rất tài tình làm hiện hình mọi cung bậc cảm xúc của nhân vật. Tác giả từ ngữ biểu cảm, thành ngữ, câu cảm thán, các điệp từ.
- Nêu cảm nhận, suy nghĩ của bản thân về bài thơ.
Phân tích bài thơ Trao duyên
“Truyện Kiều” không chỉ là đỉnh cao trong đời thơ Nguyễn Du mà còn là một kiệt tác vĩ đại của nền văn học Việt Nam, để lại những giá trị nội dung và nghệ thuật sâu sắc. Trong đó, đoạn trích “Trao duyên” đã thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo của Nguyễn Du về con người, nhất là với số phận hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều. Bên cạnh đó, bài thơ “Trao duyên” còn là những tâm sự, tiếng khóc đau khổ bật ra từ hoàn cảnh éo le “tình chị duyên em”.
“Trao duyên” là đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 trong phần “Gia biến và lưu lạc”. Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liêu Dương sau đêm thề nguyền với Thúy Kiều. Ngay sau đó, gia đình Kiều bị vu oan, cha và anh bị hành hạ. Trước cảnh gia biến, Thúy Kiều quyết định bán mình để chuộc cha. Đêm trước ngày phải theo Mã Giám Sinh thì Thúy Kiều đã cậy nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa với chàng Kim. Mở đầu đoạn trích là hình ảnh Kiều mở lời cậy nhờ Thúy vân thay mình tiếp nối mối duyên dang dở với Kim Trọng:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Để Thúy vân đồng ý thì Kiều đã rất cẩn trọng, sử dụng ngôn từ tinh tế, đạt hiệu quả cao. Hơn thế nữa, nàng cũng hiểu rõ cho tình thế của Thúy Vân, đây là câu chuyện đột ngột, bất ngờ, không dễ dàng để chấp nhận. Kiều sử dụng từ “cậy” chứ không phải từ ngữ nào khác, “cậy” với thanh trắc âm điệu nặng nề gợi sự đau đớn, quằn quại, khó nói, trái hẳn với từ “nhờ”. Cậy mang hàm ý gửi gắm, hy vọng tha thiết, van nài Thúy Vân. “Chịu lời” thể hiện sự bắt buộc, nài ép, thái độ miễn cưỡng. Nàng hiểu cho cảm xúc của Thúy vân khi phải chuẩn bị nghe những lời mình sắp giãi bày. Cặp từ “lạy, thưa” trong câu thứ hai đã thể hiện thái độ trang trọng, kính cẩn với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn. Thúy Kiều là chị Thúy Vân, thoạt nhìn có vẻ phi lý trong lễ giáo phong kiến bởi chị thì làm sao có thể lạy thưa với em được. Thế nhưng trong cuộc “trao duyên” thì nó lại hợp lý trong tư thế người hàm ơn và người cậy nhờ. Cách sử dụng từ ngữ của Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình thế éo le, khó có thể từ chối.
Những câu thơ tiếp theo, là những lý lẽ đầy thuyết phục của Thúy Kiều:
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Kiều nhói lòng khi nhắc tới chuyện tình cảm của mình với Kim Trọng, hàng loạt hình ảnh tình yêu đôi lứa được nhắc tới: “quạt ước, chén thề”. Những lời thề hẹn sắc son, những tưởng hai người sẽ hạnh phúc nào ngờ sóng gió ập đến với gia đình khiến tình duyên lỡ dở. Từng nấc thang tâm trạng là từng lời ai oán, giằng xé thương tâm. Bên tình, bên hiếu, bên nào nặng hơn, là chị cả trong gia đình, Kiều chỉ còn cách bội ước với chàng Kim, bán mình cứu cả gia đình.
Thấu hiểu rõ sự thiệt thòi của Thúy Vân, Kiều tha thiết trông mong, van nài em gái trả nghĩa cho chàng Kim. Lời thề nguyền, hẹn ước thâm tình khi xưa giờ chỉ còn biết nghĩ tình máu mủ thay thế. Để rồi sau những lời lẽ đầy lý trí là dự cảm không lành trong tương lai:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Nàng chẳng khác nào từ bỏ đi cuộc sống của mình khi phải từ bỏ tình duyên với Kim Trọng. Nàng tự nhận thức về bi kịch tình yêu đang hiện hữu, nghĩ tới cái chết của chính mình. Và đau đớn trao cho Thúy vân những kỷ vật:
“Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Thúy Kiều trao hết kỷ vật cho em cũng đồng nghĩa. Thế nhưng khi Kiều trao kỉ vật vẫn có sự giằng xé, mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm. Lý trí thì nàng muốn cho hết cho Thúy Vân thế nhưng tình cảm thì dường như không muốn, vừa muốn trao, vừa muốn giữ cho bản thân chút gì đó. Tâm lý này cũng rất dễ hiểu bởi mấy ai đủ dũng khí để trao duyên. Vậy mà Kiều phải làm thế nên hành động giữ một chút của chung cho mình là hợp quy luật tâm lý, hoàn toàn dễ hiểu. Kiều cũng mong muốn Thúy Vân và chàng Kim có cuộc sống hạnh phúc, êm đềm thế nhưng cũng muốn họ không bao giờ quên mình. Thúy Kiều rõ ràng có sự mềm yếu, ích kỷ thế nhưng chính trong đó lại thấy rõ tình cảm sâu nặng dành cho Kim Trọng, trong phút giây trao duyên nàng hụt hẫng, mất mát, đau đớn.
Trao kỉ vật xót xa, đau đớn bao nhiêu thì những lời dặn dò mai sau càng quặn thắt bấy nhiêu:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Thúy Kiều tưởng tượng viễn cảnh tương lai của mình qua hình ảnh nhuốm màu tang tóc. Những “lò hương”, “ngọn cỏ lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “người thác oan”…. gợi tới cuộc sống cõi âm lạnh lẽo. Đặc biệt, nhịp thơ chậm rãi, tức tưởi, nghẹn ngào như tiếng khóc não nề cố nén lại để không bật thành lời. Trong lòng Kiều vẫn còn nặng tình cảm với chàng Kim, nàng đau đớn đến tột cùng. Cuối cùng trong những giây phút gửi gắm tình duyên, Kiều đối diện với thực tại:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Đang đối thoại với Thúy Vân, Kiều quay sang độc thoại với chính mình. Qua hai tiếng “bây giờ”, Kiều ý thức về hiện tại đầy đau xót. “Bây giờ” là sao? Là “trâm gãy gương tan”, là “kể sao cho xiết muôn vàn ái ân”, là “trăm nghìn gửi lạy tình quân”, là “tơ duyên ngắn ngủi”… Còn gì xót xa, còn gì đau đớn hơn. Nàng gần như rơi vào cơn mê sảng bởi số phận nổi trôi, tình duyên đứt đoạn. Nàng buông xuôi tất cả, mặc cho số phận xô đẩy để bật ra tiếng khóc, tiếng gọi nghẹn ngào, đau đớn:
“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Hai thán từ “Ôi, hỡi” được sử dụng trong cùng một câu, tiếng gọi Kim Lang lặp lại vừa trân trọng, tha thiết nhưng cũng đầy tuyệt vọng, đớn đau. Câu thơ ngắt nhịp 3/3 như tiếng nấc nghẹn ngào. Thúy Kiều quên đi nỗi đau của chính mình mà nghĩ cho người khác, điều này thể hiện đức hy sinh cao cả của nàng.
Đoạn trích “Trao duyên” đã miêu tả tài tình diễn biến tâm trạng nhân vật. Qua đó chúng ta cảm nhận rõ được tình yêu, sự hy sinh cùng số kiếp bạc mệnh của nàng. Đồng thời tác giả cũng lên án xã hội phong kiến bất công, bày tỏ sự đồng cảm với những số phận ngang trái, khổ cực của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa.
Trên đây là mẫu phân tích đoạn trích Trao duyên của Nguyễn Du mà chúng mình muốn chia sẻ đến cho các bạn. Hy vọng bài viết đã đem đến cho bạn những kiến thức hữu ích.