Chiến binh cầu vồng là câu chuyện có thật ở vùng quê nghèo Indonesia, nơi 10 đứa trẻ phải vật lộn với cuộc sống để được đến trường. Nhiều câu chuyện đáng nhớ được kể lại suốt quãng đời đi học, và cái kết cay đắng khiến nhiều độc giả phải suy ngẫm.
Đâu là hơi thở của giáo dục và linh hồn của một chốn được gọi là trường học? Phải chăng cái gọi là trường học và sự giáo dục đó mang đến cho những cô cậu học trò tuổi thơ đẹp nhất, tình bạn đẹp nhất, tâm hồn phong phú, và một phương pháp giáo dục không ép buộc, một thứ gì đó vô giá, thậm chí còn có giá trị hơn những khao khát ước mơ. Nếu là thế thì Muhammadiyah là 1 ngôi trường tuyệt vời, thầy Harfan và cô Mus là những nhà giáo vĩ đại, và những chiến binh cầu vồng trong câu chuyện này là những đứa học trò may mắn.
Xem thêm: QUẲNG GÁNH LO ĐI VÀ VUI SỐNG – TÀI SẢN QUÝ GIÁ NHẤT LÀ NGÀY HÔM NAY
Giới thiệu tác giả Andrea Hirata
Andrea Hirata là nhà văn Indonesia ăn khách nhất từ trước đến nay. Tác phẩm đầu tay của ông, Chiến binh cầu vồng (tiếng Indonesia là Laskar Pelang) dựa trên câu chuyện có thực về thời thơ ấu của chính nhà văn. Ngay từ lần xuất bản đầu tiên năm 2005, cuốn sách về ước mơ và cuộc đấu tranh bền bỉ của thầy trò trường Muhammadiyah để gìn giữ quyền giáo dục cho chính mình đã giành thành công vang dội.
Chiến binh cầu vồng đã được chuyển thể thành phim điện ảnh, nhạc kịch và phim truyền hình. Bộ phim Chiến binh cầu vồng đạt doanh thu cao kỉ lục ở Indonesia đồng thời giành được nhiều giải thưởng trong nước cũng như quốc tế
Tóm tắt Chiến Binh Cầu Vồng
“Chiến binh cầu vồng” là những câu truyện đẹp đẽ, hài hước nhưng đầy cảm động về tình bạn đẹp, tình yêu trong sáng tuổi học trò, tình thầy trò cao quý và cả tình cảm gia đình thiêng liêng xoay quanh trường tiểu học Hồi giáo Muhammadiyah – ngôi trường nghèo nhất và lâu đời nhất ở Belitong, một hòn đảo nhỏ thuộc Indonesia. Nổi bật nhất là quá trình vượt khó học tập trong nghèo khổ và sự cố gắng, đấu tranh bền bỉ để giữ trường học không bị đóng cửa của thầy Harfan, cô Mus và 11 học sinh (những chiến binh cầu vồng) ở nơi đây. Quyển sách còn cho ta thấy cuộc sống nghèo khổ, cơ cực của tầng lớp lao động thấp ở Belitong cũng như hiện thực tàn nhẫn của cái nghèo.
Chiến binh cầu vồng – Nơi chia sẻ những cảm xúc
Bạn đọc sẽ không cầm được nước với những gia đình cu li nghèo trên đảo Belitong thập niên 80. Hòn đảo xinh đẹp, giàu có là thế, nhưng người dân cực khổ trăm bề. Với một gia đình cu li, làm lụng cả ngày để thu về 5 đô la 1 tháng là điều đương nhiên. 7 tuổi, nơi những đứa trẻ mơ về không phải trường học, bài giảng, thầy cô, mà là những nông trường khai thác tiêu, khai thác thiếc rộng lớn.
Một sự thật cay đắng mà tác giả thừa nhận, bọn con trai làm cu li đốn trầm hương còn mua được một cái xe đạp, trong khi thầy Harfan đường đường là hiệu trưởng trường tiểu học Hồi giáo Muhammadiyah chật vật lắm mới mua được sợi xích hay ruột xe đạp mà thôi.
Chính vì vậy trường học là cái gì đó xa lạ với người nghèo Belitong, họ được nhồi sọ rằng học tập chỉ dành cho con em nhà giàu. Với những gia đình đông con, cho chúng đi làm từ sớm ở của hàng người Hoa, hay ở công trường khai thác thiếc PN để phụ giúp kinh tế còn khả thi hơn cho chúng đi học, vừa tốn kém mà chẳng lợi lộc gì.
Sự thật phũ phàng khắc họa ngay đầu truyện, ngay ngày khai giảng năm học mới, chỉ có 9 đứa trẻ đến trường, cảm giác vui sướng nhanh chóng nhường chỗ cho sự lo lắng, có đứa mặt ngân ngấn nước phụng phịu. Cái hy vọng được đi học của chúng chưa kịp thành hiện thực đã bị dập tắt, bởi theo quy định trường Muhammadiyah phải có tối thiểu 10 học sinh mới được tiếp tục hoạt động.
May mắn phút cuối Harun xuất hiện, một cậu bé bị thiểu năng trí tuệ bẩm sinh. Trường Muhammadiyah thoát khỏi cảnh đóng cửa.
Ngay cả khi đã được phép tiếp tục giảng dạy, thầy trò vẫn phải đương đầu với nhiều khó khăn, ngôi trường cũ kĩ sập sệ có tuổi thọ 120 năm chỉ cần 1 trận gió là đổ sụp xuống bất kì lúc nào. Trong lớp chẳng có gì, một tủ trưng bày trống trơn, không có mô hình học tập, không quả địa cầu, cờ và quốc huy Indonesia. Còn tay thanh tra Samadikun thì luôn chực chờ đóng cửa ngôi trường.
10 đứa học sinh đều là con gia đình cu li, cha mẹ chúng chỉ biết làm việc từ sáng đến khuya để nuôi sống gia đình. Ngay từ đầu chẳng ông bố bà mẹ nào hào hứng đưa con đến trường. Những đứa trẻ đen đúa đầu tóc bờm xờm, tay chân lem luốc, cổ còn thòng dây ná, chân mang dép lốp ô tô, chúng chẳng có compa, thước kẻ, máy tính. Nhưng tinh thần ham học hỏi và sự cần cù, chăm chỉ thì ngay cả những đứa trẻ nhà giàu cũng khó mà có được.
Chính cuộc sống khó khăn hiện tại là động lực để chúng đến trường thường xuyên hơn. Với chúng việc học không là điều gì quá đáng sợ mà là cánh cửa mở ra thế giới kì diệu. Bọn trẻ đón nhận việc học với tất cả sự hăng say, nhiệt tình và cực kì nghiêm túc.
Lintang – một chiến binh đặt biệt trong nhóm vẫn hằng ngày đạp xe tổng cộng 40 cây số tới trường, băng qua 4 khu rừng đầm lầy cá sấu. Cái xe đạp tả tơi tới mức dây sên đã tháo xích ngắn không gắn lại được. Có lần cậu phải bán nhẫn cưới kỉ niệm của cha mẹ để mua ruột và xích xe mới.
Khó khăn là vậy nhưng Lintang là đứa chăm chỉ và thông minh nhất. Để tới trường nhiều khi phải bất chấp tính mạng, ấy vậy nó luôn tới sớm nhất. Nó thực hiện lời hứa với cha nó, điền bảng kí thông tin phụ huynh khi mới học chữ- vì ông không biết đọc. Và năm học nào thằng bé cũng đứng nhất.
Khó khăn đã hun đúc bản chất kiên cường, mạnh mẽ vốn có của những “chiến binh”. Những tài năng thiên bẩm đã đươc sản sinh từ môi trường khó khăn, mà rất lâu sau mới có người thứ hai. Đó chính là thần đồng toán học Lintang và tài năng nghệ thuật Mahar, hai người mà tác giả cho là đã khiến nhóm học sinh nghèo dám ước mơ và lạc quan hy vọng vào cuộc sống.
Ngoài 10 chiến binh can trường nhỏ tuổi, ngôi trường Muhammadiyah còn có 2 chiến binh nữa là thầy Harfan và cô Mus- những giáo viên nghèo khổ tận tâm đã mang hơi thở giáo dục đến trẻ em đảo Belitong. Những con người nhỏ bé trong ngôi trường bị lãng quên đã góp một tia hy vọng tươi sáng cho thế hệ trẻ Belitong.
Hai con người xem nghề giáo là nghề cao quý. Một người thầy 50 năm làm giáo viên mà không nhận được một rupi tiền lương nào, đến tận khu làm việc của cu li để động viên từng trẻ đến trường. Thầy cống hiến hết mình cho giáo dục và chết ngay trên bàn làm việc, lặng im, không ai biết.
Hình ảnh cô giáo trẻ Mus tận tâm yêu nghề, từ bỏ công việc mơ ước, bước vào nghiệp nhà giáo với nhiều tâm huyết, cùng học sinh bước qua nhiều thử thách cam go. Cô là thủ lĩnh tinh thần đáng tự hào của nhóm chiến binh cầu vồng.
Ngôi trường cấp 1 bị lãng quên bởi những người dân đã lãng quên tầm quan trọng của giáo dục, trong một xã hội bỏ quên tầng lớp người nghèo, tại một hòn đảo bị chính trị gia, người có thế lực lãng quên.
Mỗi ngày đến trường là một ngày vui
Có lẽ chỉ những nơi mà các cô bé cậu bé oằn mình dưới gánh nặng nghèo khổ, dốt nát thì ước mơ được đến trường mới thật sự cháy bỏng. Ngôi trường Muhammadiyah xiêu vẹo, nghiêng ngả đến nỗi tưởng như một cơn gió thổi ngang qua cũng sẽ đổ lại là nơi gieo mầm và nuôi dưỡng niềm vui ấy.
“Chiến Binh Cầu Vồng” là những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trên đảo Belitong, một hòn đảo nhỏ xinh đẹp nằm ở phía Tây Indonesia. Những đứa trẻ ấy sinh ra với cái nghèo, với sự lam lũ của người bản địa nếu không phải cu li cho công ty khai thác thiếc thì cũng là ngư dân bữa được bữa mất trông chờ cả vào biển.
Một ngôi trường tơi tả. Một cô giáo mười lăm tuổi mới tốt nghiệp trường nghề và vị hiệu trưởng lam lũ luôn chật vật, tất tả. Mười đứa học sinh lôi thôi nhếch nhác. Những giờ học mà lỡ trời có mưa thì cô giáo che tàu lá chuối trên đầu đứng giảng.
Cậu học sinh thấp bé lọc cọc đạp chiếc xe cà tàng 80 km ngang qua khu đầm lầy đầy cá sấu, đi về mỗi ngày để tới trường… Có như vậy mới thấy khát khao được học, khát khao được hiểu biết, khát khao có thể thoát khỏi sự ngu dốt, nghèo đói đã cháy lên nồng nhiệt biết chừng nào.
Và từ Muhammadiyah, trí tuệ, tình yêu toả sáng, tựa như ánh đèn màu xanh lộng lẫy nơi những mỏ thiếc đã thắp sáng đảo Belitong. Là Lintang với sự am hiểu thiên phú về toán học và khoa học tự nhiên. Là Mahar với phức cảm trời sinh về nghệ thuật và âm nhạc… Mười đứa trẻ, mười hoàn cảnh, mười câu chuyện hội tụ bên nhau, trèo lên cây filicium sau mỗi cơn mưa để ngắm cầu vồng.
Cứ thế, mỗi ngày đến trường đều thật vui dù rằng trong ngôi trường thiếu thốn đủ thứ ấy, sau mỗi giờ học, giáo viên trầy trụa với những công việc mưu sinh, học sinh tất tả trong cái vòng xoáy cơm áo gạo tiền của gia đình, và cả cái nguy cơ đóng cửa trường treo lơ lửng trên đầu.
Học để làm người
“Chiến Binh Cầu Vồng” là một câu chuyện về tuổi thơ nhưng ẩn sau đó là câu chuyện về giá trị con người. Giữa một xã hội mà đồng tiền là yếu tố chi phối thì giáo dục không còn giữ được ý nghĩa nguyên bản nữa. Người ta không còn học để xây dựng nhân cách, không học vì niềm vui hay hiểu biết nữa, người ta học để thăng tiến, để kiếm tiền.
* Và ngôi trường Muhammadiyah sụp đổ.
“Chúng tôi đã khuỵu xuống vì một kẻ thù vô hình, mạnh nhất, độc ác nhất, vô nhân tính nhất và khó chống lại nhất. Như một khối u ác tính nó gặm dần những học sinh, những thầy cô giáo, và ngay cả chính hệ thống giáo dục. Kẻ thù đó là chủ nghĩa thực dụng.”
Sau mười hai năm, cơm áo gạo tiền cản bước trí tuệ của Lintang, thiêu rụi hoài bão trở thành giáo viên của Ikal, khiến A Kiong quên rằng mình đã từng mơ trở thành thuyền trưởng và Sahara cũng không trở thành người đấu tranh cho nữ quyền.
Thế đấy, đó là cuộc sống. Cuộc sống biến Ikal trở thành anh nhân viên bưu điện quèn, biến Lintang thành người lái xe chở cát khắc khổ, biến Trapani thành kẻ dở sống dở chết trong bệnh viện tâm thần, biến A Kiong thành anh chủ tiệm tạp hoá…
* Muhammadiyah. Tuổi thơ. Kỷ niệm. Mối tình đầu.
Ở đó, giữa nghèo khó, cô Mus, thầy Harfan đã dạy cho những đứa trẻ biết giá trị của giáo dục, say mê học tập và tận hưởng niềm vui cắp sách đến trường. Cũng ở đó, những chiến binh cầu vồng đã thấm nhuần tinh thần cho hết mình chứ không phải nhận hết sức mình. Và rồi sau này, họ cố gắng, nỗ lực để không còn những đứa trẻ thông minh như Lintang, như Mahar buộc phải quy hàng số phận chỉ vì nghèo.
“Đừng bỏ cuộc”
“Chiến Binh Cầu Vồng” khép lại với một hàng chữ được tô thật đậm.
Thật ngắn ngủi và đơn giản nhưng lại khó khăn vất vả biết bao nhiêu. Trên trang sách của “Chiến Binh Cầu Vồng” là không chỉ là một câu chuyện mà còn là một hiện thực, rất tàn nhẫn, rất phũ phàng của cuộc sống.
- Bên cạnh những người dân lao động nghèo khổ là một Điền Trang xa hoa, lộng lẫy.
- Bên cạnh ngôi trường Muhammadiyah xiêu vẹo sắp đổ sập là ngôi trường PN ưu tú dành cho những kẻ giỏi nhất và giàu có.
- Bên cạnh mười đứa học sinh rách rưới tơi tả của ngôi trường làng là những học sinh mặc đồng phục sơ mi xanh da trời in hoa của ngôi trường điểm.
Cái nghèo quanh quẩn và hiện hữu trên từng câu chữ càng làm cho ước mơ được học, được hiểu biết, được thoát nghèo của những đứa trẻ, những ông bố bà mẹ nơi tận đáy đảo Belitong trở nên đáng quý. Và rồi dù cuộc đời có quăng quật mỗi người thì niềm tin và ước mơ đã từng có ấy sẽ nâng đỡ họ… giống như Lintang đã nói: “Ít nhất thì mình cũng đã giữ lời hứa với cha, là mình sẽ không làm nghề đánh cá”. Cay đắng đấy nhưng vẫn có hy vọng cho tương lai.
Nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, Chiến Binh Cầu Vồng mang lại cho ta những bài học đầy triết lý và nhân văn. “Sau cơn mưa trời lại sáng” : niềm hy vọng mãnh liệt cùng với lòng kiên nhẫn vững vàng sẽ đưa chúng ta đến bến bờ của hạnh phúc, của thành công!